QH: Việc phân loại sách quan trọng như thế nào trong chu trình phân tích và phê bình, thưa chị?
DNN: Quan trọng lắm, vì việc phân loại khẳng định tiêu chuẩn đánh giá của người đọc cũng như của nhà phê bình. Thí dụ: khi tác giả đã khẳng định một cuốn sách là tiểu thuyết, thì phân tích và phê bình phải đi vào giá trị của nghệ thuật và sáng tạo, thay vì quay quắt về vấn đề các dữ kiện đời sống và lịch sử “đúng” hay “sai,” “đầy đủ” hay “thiếu sót,” “công bằng” hay “thiên vị,” như khi đánh giá sách “phi tiểu thuyết” (non-fiction) nhất là về lịch sử hay chính trị. Điều tối kỵ là bóc vỏ “tiểu thuyết” để công kích tác giả, cho rằng tác giả là nhân vật. Nếu chuyện này xảy ra, gây hoang mang cho độc giả về ranh giới giữa đời sống và tiểu thuyết, thì đó là hành vi thiếu lương thiện mà giới phê bình đứng đắn của một xã hội văn minh ngày nay không thể bước vào.
Trái lại, khi một cuốn sách rõ ràng là dạng hồi ký, nghiên cứu, hay “phóng sự,” thì giá trị phải đặt theo tính chất công bằng, tính chất đầy đủ của việc nghiên cứu, sự đóng góp vào việc ghi chép lịch sử, hoặc dựa trên tiêu chuẩn trung thực và nghiêm túc: dữ kiện có xác đáng, dựa trên nguồn chính xoác và uy tín, cuốn sách có trình bày nhiều quan điểm khác nhau của một vấn đề dựa trên những nguồn nầy, hoặc trên căn bản luận lý, qua con mắt nhà báo hay người ghi chép chịu trách nhiệm trước độc giả và lịch sử trong công cuộc đi tìm sự thật.
Nếu là tác phẩm nghiên cứu xã hội theo khoa học nhân văn, thì còn phảui định giá việc phân tích dữ liệu, diễn giải thống kê, vân vân, theo quy chế của khoa học thực nghiệm (gọi là phương pháp nghiên cứu định tính (quantitative), thay vì định lượng (qualitative).
Khi một tác phẩm không phải là văn chương sáng tạo, được dựa trên phương pháp nghiên cứu định lượng (qualitative), thí dụ như thu góp và phân tích dữ kiện lịch sử và xã hội, thì giá trị sẽ phải nằm ở tính cách đầy đủ của tác phẩm. Thí dụ: công cuộc phỏng vấn để lấy dữ kiện: phỏng vấn những ai, có tiêu biểu trong mệnh để muốn nói hay không, hỏi những câu gì, cách đặt câu hỏi, vân vân, cũng như kết luận của tác giả dựa trên các dữ kiện đã nêu ra. Nếu có nhắc đến lịch sử, thì phải kê khai nguồn, và càng nhiều nguồn nói lên nhiều quan niệm khác nhau thì càng tốt cho tính cách phân tích và lý luận của tác giả.
Một thí dụ khác: khi phê bình hay viết sách, nếu chỉ đưa nguồn ra cho thật nhiều đề “lòe” người đọc, không có nghĩa là công việc nghiên cứu hay phê bình có tính cách chân chính, vì “nguồn” có thể bịa đặt, hoàn toàn sai lầm, “lấy râu ông nọ cắm cằm bà kia,” hoặc bóp méo, và như thế là lường gạt độc giả, nhất là khi độc giả không có thì giờ hay chuyên môn để tìm hiểu các “nguồn” này. Từ cái gọi là phê bình và dẫn chứng, đi đến “xuyên tạc” và “công kích” bất lương để triệt hạ một tiếng nói, rất dễ dàng xảy ra, nhất là trong một quần chúng ít kiến thức chuyên môn và có tâm lý giao động vì ảnh hưởng bởi những biến chuyển của lịch sử ngoài tầm tay của họ.
Riêng về bộ môn triết lý (philosophy), ở đại học Mỹ, hoàn toàn không cho người viết được kê khai nguồn, mà chỉ có thể đặt lên giấy trắng mực đen những tư tưởng “gốc” của chính mình, dựa trên lý luận và sáng tạo.
Dù là loại sách gì chăng nữa, thì việc đi tìm chủ đích của tác giả và vấn để trách nhiệm đạo đức của ngòi bút tác giả là tối quan trọng trong vấn để phân tích và phê bình sách. Trách nhiệm ngòi bút của nhà phê bình vì thế còn quan trọng hơn cả tác giả, vì nhà phê bình, nếu có lương tâm và có chỗ đứng trong thế giới sách vở, là người đã tự đứng ra nhận lãnh nhiệm vụ hướng dẫn quần chúng.
QH: : Đi qua lãnh vực báo chí một cách rõ rệt hơn, nếu một nhà báo viết sách, thì theo chị tiêu chuẩn phê bình phải như thế nào?
DNN: Tiêu chuẩn viết báo về “tin” (news) đặt trọng tâm ở sự dễ hiểu (viết cho độc giả chỉ ở mức tốt nghiệp trung học), trung thực với mục đích loan tin cho quần chúng mà thôi. Nếu viết báo ở một lãnh vực chuyên môn (tiếng của giới báo chí ở Mỹ gọi là “beat”), thì nhà báo có thể đi vào địa hạt phân tích và nhắm vào quần chúng có trình độ cao hơn mức tốt nghiệp trung học. Như vậy, nói chung tiêu chuẩn viết cho nhà báo luôn luôn phải đặt ở sự trung thực và đầy đủ. Điều này có nghĩa rằng nhà báo phải phỏng vấn và tìm tòi tài liệu nghiên cứu ở nhiều mặt khác nhau, và phải trình bày vấn để ở nhiều khía cạnh chứ không phải chỉ một chiều.
Trên thực tế, nhà báo khi viết và phân tích thế nào cũng đem định kiến của mình vào tác phẩm. Điều này chúng ta, cộng đông người Việt hải ngoại, đã thấy rõ ràng trong việc các nhà báo Tây Phuơng tường trình chiến tranh Việt Nam. Nhan nhãn những nhà báo phục vụ cho các xu hướng chính trị, hay đi tìm danh trong nghề nghiệp của mình. Nhưng cũng đã có những nhà báo hy sinh cả tính mạng vì nhiệm vụ cao quý của người tường thuật.
Vì vậy, khi tường thuật, nghiên cứu, và nhận định, càng ít định kiến chừng nào thì tác phẩm của nhà báo càng có giá trị chừng ấy, vì nhà báo đã làm nhiệm vụ “thông tin” của mình, đi ngược lại định kiến của mình, thay vì tìm cách ảnh hưởng đến dư luận qua khung kính đầy định kiến của cá nhân mình. Vì nhà báo cũng là con người mà thôi, và con người có thể nhầm lẫn, định kiến, người đọc và nhà phê bình cần phải làm việc nhận định gắt gao vì chỗ đứng quan trọng của báo chí trong một xã hội dân chủ.
QH: Như vậy tiếng nói của nhà báo có thể là tiếng nói của dân gian không, thưa chị? Chẳng khác chi lịch sử viết bằng dân gian, như trường hợp ca dao tục ngữ của Việt Nam mình…
DNN: Điều này rất “khả thi” nhất là khi tiếng nói của nhà báo đi ngược lại đường hướng của chính sách, trong một xã hội kém dân chủ. Các nhà độc tài luôn luôn tìm cách tiêu diệt trí thức và nhà báo, hoặc biến họ thành những công cụ phục vụ cho chính sách. Tôi dùng chữ "chính sách" để dịch từ “policy” , không có nghĩa là sách lược nhất thiết phải chân chính. Chữ "chính" trong "chính sách" ở đây có nghĩa là sách lược được công bố, được thi hành theo giáo điều (formalized, official).
Trong một xã hội như vậy, thì tác phẩm tường thuật của nhà báo, nếu đi ngược lại chính sách, có thể trở thành một phần tử của dân gian ghi lại những dữ kiện lịch sử và ảnh hưởng của các dữ kiện đó trên con người. Nếu không là sự ghi chép đến từ quan niệm của dân, (một hình thức ghi lại lịch sử truyền khẩu), thì tác phẩm của nhà báo vẫn là một tài liệu nghiên cứu, trong đó giá trị phải đặt trên tính trung thực, khả năng tìm tòi, sắp đặt, sự công bằng và cách kể chuyện từ mọi phía của người viết.
Nếu nhà báo là công cụ của thế lực, thì tác phẩm không còn là tác phẩm của nhà báo nữa, mà là tác phẩm của thế lực. Tuy nhiên, những độc giả muốn hiểu thế lực, thì vẫn phải đọc tác phẩm ấy như thường. Đọc như giáo điều thì không, nhưng đọc để tìm hiểu, thì vẫn nên đọc.
Làm thế nào để biết tác phẩm là của nhà báo, phản ánh tiếng nói của dân gian, hay là của thế lực? Đó là nhận định của mỗi độc giả. Sự ca tụng quá đáng, hay chửi rủa thậm tệ, đều có tác dụng tâm lý trên quần chúng, làm chính trị hoá sự việc (politicized), đi đến mục đích bóp méo việc đi tìm sự thật mà chính độc giả phải tự nhận định lấy, từ chỗ đứng và tầm nhìn của mình.
Công việc đi tìm sự thật, dựa trên tính tương đối của sự thật cũng như sự hiển nhiên của dữ kiện, phân biệt hẳn ra khỏi tuyên truyền hay định kiến, chính là công tác trường kỳ khó khăn nhất trong lịch sử nhân loại. [in đậm bởi Quê Hương]
QH: Như thế thì, riêng trong bộ môn tiểu thuyết, trách nhiệm của tiểu thuyết gia là gì, thưa chị? Vì tiểu thuyết là giả tưởng, điều đó có nghĩa rằng tác giả muốn viết gì thì viết hay không?
DNN: Dĩ nhiên là không. Đánh giá tiểu thuyết không thể nằm trong phạm vi “chân chất” được (tôi dịch chữ “literal.”) Tác phẩm là “literary” (văn chương), không phải là một bài tường thuật có tính cách “chân chất” (literal). Thí dụ: nhận định sau đây: “Ủa, tác giả mô tả nhân vật ăn kẹo chocolat. Tôi muốn biết kẹo đó hiệu gì để tôi cũng đi mua. Tác giả không nêu lên nhãn hiệu của kẹo chocolat, làm tôi thất vọng, và như thế là tác giả viết dở hay không đúng sự thật?” Đó là thí dụ của sự “chân chất”. Từ “chân chất” đi đến ngô nghê hay ngớ ngẩn. Phê bình văn chương kiểu đó là xuyên tạc và thiếu lương thiện, rất có hại khi được phổ biến cho quần chúng không chú tâm đến bộ môn nghệ thuật, và chưa hề đọc tiểu thuyết.
Vì giá trị của tiểu thuyết nằm ở cách kể truyện, tiểu thuyết gia phải tạo cho độc giả cảm tưởng và xúc động. Ngay cả tiểu thuyết khoa học giả tưởng hay truyện ma quái cũng phải có tác dụng làm độc giả bước vào thế giới huyền ảo mà tưởng như rằng minh đang có mặt trong truyện, nhu thể là truyện có thật. Trong thế giới của văn chương sáng tạo hay nghệ thuật trình diễn, người Mỹ gọi cảm tưởng này là “suspended disbelief”: độc giả và người xem hoàn toàn tin tưởng vào câu truyện, đến nổi tất cả những nghi ngờ đều “ngưng đọng” lại. Chỉ khi nào đạt được và đem đến cảm tưởng say mê, đến nỗi “tất cả những nghi ngờ về một thế giới không có thực đã bị ngưng đọng lại” trong trái tim và đầu óc người xem (ý nghĩa cụm từ “suspended disbelief”), thì lúc đó nghệ thuật tiểu thuyết và nghệ thuật trình diễn mới được gọi là thành công.
Nói khác đi, người xem bị cuốn hút vào thế giới của tiểu thuyết và tưởng rằng thế giới đó có thực, đến nổi bị ảnh hưởng về mệnh đề của tiểu thuyết, tin theo tác giả, bị thuyết phục bởi tác giả để khóc cười theo tác giả bằng cách sống dưới da những nhân vật, thì đó mới đúng là một cuốn tiểu thuyết hay. Tiểu thuyết tuyệt tác thường có mệnh đề, và phải phản ảnh đời sống đầy đủ và trung thực, dù rằng cụ Nguyễn Du rất khiêm nhường nói lên, “..Mua vui chỉ được một vài trống canh…” Nếu không có giá trị mệnh đề, thì người ta không dùng chữ “tiểu thuyết,” nghĩa đen là “A little essay,” để mô tả bộ môn nghệ thuật này. Do đó, tiểu thuyết cũng phải dựa trên nghiên cứu, biện luận, nhưng tất cả đều phải qua nhân vật và cốt truyện. Sự tạo dựng nhân vật, vì thế, vô cùng quan trọng trong nghệ thuật tiểu thuyết.
Tìm cho ra mệnh đề của tiểu thuyết để phân tích chính là công việc của nhà phê bình. Trong một cuốn tiểu thuyết hay, tác giả không ‘đi vào’ cốt truyện thay thế nhân vật, để giảng giải công trình nghiên cứu cho độc giả, vì như thế là đã “kéo độc giả ra khỏi thế giới của ‘suspended disbelief.” Tiểu thuyết gia đem độc giả vào thế giới ảo tưởng với mục đích thức tỉnh độc giả về phương diện tri thức, tư tưởng, hoặc để cải cách xã hội y hệt như những tác phẩm nghiên cứu phi tiểu thuyết. Trong trường hợp đó, tiểu thuyết gia làm công việc của …luật sư trong nghệ thuật thuyết phục, gọi là the art of persuasion hay rhetoric. Đây là một trong những điểm chính yếu tôi nêu lên khi nghiên cứu về tương quan giữa văn chương và luật học (“law and literature movement”) tại đại học Harvard. Nhà văn viết tiểu thuyết tức là mặc áo luật sư.
Có một loại tiểu thuyết nữa, trong đó tác giả chỉ đi theo cảm hứng sáng tạo, không muốn đem vào tiểu thuyết mệnh đề nào cả. Người ta gọi đó là nghệ thuật vị nghệ thuật (“L’art pour l’art), và đã có rất nhiều bàn cãi về loại sáng tạo này ở Việt Nam, đầu thế kỷ 20. Một thí dụ: cuốn Lolita của Vladimir Nabokov, được cho là một trong những cuốn tiểu thuyết hay nhất thế giới vì khả năng viết của nhà văn. Cho đến bây giờ, thế giới văn học vẫn chưa ngã ngũ rằng cuốn tiểu thuyết này có mục đích nghị luận, hay chỉ là một sáng tạo nghệ thuật thuần túy.
QH: Nếu có “nghị luận,” thì tại sao không nói thẳng qua sách khảo cứu hay viết biên luận như…luật sư, mà lại phải viết tiểu thuyết làm chi?
DNN: Vì tiểu thuyết gia là những nghệ sĩ sáng tác, còn các nhà khảo cứu hay luật sư thì không. Nhu cầu phục vụ xã hội đem họ lại gần với nhau mà thôi. Nói trắng ra, dạng tiểu thuyết đáp ứng như cầu giải trí cũng như nhu cầu của con người đi tìm chân thiện mỹ. Hơn thế nữa, trong buổi giao thời, dạng tiểu thuyết trốn thoát được con mắt soi bói của bạo lực và đem mệnh đề cải cách xả hội hay ghi nhận lịch sử đến cho quần chúng một cách dễ dàng hơn, không bị ‘kiểm duyệt’ gay gắt khi có tình trạng kiểm soát tự do ngôn luận.
Tại đại học Harvard, tôi dùng ngay thí dụ từ văn học sử VN để chứng minh lý do tại sao tác giả gửi gấm mệnh đề của mình qua văn chương sáng tạo, nhất là trong buổi giao thời. Tôi nhìn vào giai đoạn Trịnh Nguyễn phân tranh và việc thay đổi quyền lực từ triều Lê chúa Trịnh, qua đến nhà Tây Sơn, rồi cuối cùng là triều Nguyễn, tiếp xúc với Tây Phương đưa đến chủ nghĩa thực dân áp dụng ở VN và hịch Cần Vương. Trong giai đoạn kéo dài, vô cùng nhiễu nhương này, khi mà người Việt giết hại lẫn nhau và triệt hạ nhân tài, đất nước trải qua bao nhiêu chiến tranh và biến chuyển, rất nhiều văn thi sĩ vào bậc nhất của VN đã ra đời và đã sáng tạo, nhiều người là những nhà cách mạng tư tưởng, nhà hiền triết, hoặc đệ nhất khoa bảng của xã hội thời ấy: Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Gia Thiều, Đoàn Thị Điểm, Đặng Trần Côn, Bà Huyện Thanh Quan, rồi Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, Nguyễn Khuyến, Dương Khuê…
Cho việc nghiên cứu, tôi đặc biệt chú trọng đến “bộ ba tác phẩm sáng tạo” (trilogy) của cổ thi VN: theo tôi, “bộ ba” này có tư tưởng phôi thai dẩn đến mệnh đề “nữ quyền,” diển tả tâm trạng và nỗi đau của phụ nữ thời cổ: Kim Vân Kiều, Cung Oán, và Chinh Phụ, phản ảnh đời sống của xã hội thời ấy. Dĩ nhiên là luận đề của tôi viết bằng tiếng Anh. Tôi gọi bộ ba tác phẩm này là “The Glass Bottle” (cái chai trong vắt). Văn chương sáng tạo chứa đựng mệnh đề xã hội giống như cái chai trong vắt: nhìn vào chỉ thấy ‘tiểu thuyết’ – cốt truyện và nhân vật—mà chẳng thấy cái chai đâu cả, vì cái chai làm bằng thủy tinh! Bức tường bằng thủy tinh ấy che chở cho mệnh đề xã hội của tiểu thuyết, độc giả muốn hiểu thế nào cũng được. Độc giả có thể không nhìn thấy hình thù cái chai, nhưng xuyên qua bức tường thủy tinh, có thể đã thấy chính mình và xã hội của mình, qua cốt truyện và nhân vật.
Thử tưởng tượng nếu truyện Kiều, Chinh Phụ và Cung Oán không phải là dạng thi văn sáng tạo, thì hậu quả của nhân vật Từ Hải, tiếng kêu than của người đàn bà từ cung cấm, và giọt lệ của người chinh phụ động chạm đến triều đình và giới quý tộc như thế nào. Về ảnh hưởng của Chinh Phụ trong thời chiến, nên nhớ: trong Binh Thư Yếu Lược của Trần Hưng Đạo, có câu tương tự như sau: “nếu làm náo động quân sĩ, sẽ CHÉM!” (tôi nói theo trí nhớ, xin quý vị chuyên về cổ văn kiểm lại dùm). Thử nghĩ, nỗi lòng hối tiếc của người thiếu phụ: “lúc ngoảnh lại thấy màu dương liễu, thà khuyên chàng đứng chịu tước phong…” có thể mang đến bao nhiêu “cái chém” cho binh sĩ, nếu không được che dấu dưới dạng thi văn sáng tạo qua ngòi bút của Đặng Trần Côn và Đoàn Thị Điểm.
QH: Xin chị nói thêm về công trình nghiên cứu của chị, chương trình gì thưa chị? Chị làm công trình khảo cứu này ở trường Luật?
DNN: Thưa phải…Đây là những nghiên cứu xuyên bộ môn interdisciplinary studies, Law and Literature Movement, thường có ở Post-Doctorate Fellowhip. Trường Luật và Faculty of Arts and Sciences. Giá trị của Harvard là ở chỗ họ cho môi trường khảo cứu rất rộng rãi, cởi mở, và không hạn chế đề tài…
QH: Thưa chị, ngoài bộ ba cổ thi từ văn học sử VN, và lý thuyết “ cái chai trong vắt” của chị, công trình nghiên cứu đem lại những gì khác?
DNN: Xin lưu ý: phê bình văn ḥoc literary critique khác với điểm sách book reviews Tôi phê bình tất cả là 6 cuốn sách văn chương sáng tạo hiện đại, trong đó có 2 cuốn nói về VN:
1)The Quiet American của Graham Greene, nhà văn quốc tế chuyên về tiểu thuyết chính trị, đã tiên đoán sự thất bại của Mỹ ở Đông Dương qua cuốn tiểu thuyết này;
2)The Deep Green Sea của Robert Olen Butler, nhà văn đoạt giải Pulitzer về truyện ngắn của Mỹ, nói về người Việt di dân. Truyện dài này nói về thảm kịch của một cựu chiến binh Hoa Kỳ quay về thăm lại VN sau chiến tranh. Ông ta đã vô tình “lấy” chính đứa con gái vô thừa nhận của mình, giống như chuyện loạn luân của Oedipus trong thần thoại Hy Lạp.
3)Kiss of the Spider Woman, kịch sân khấu ‘cải cách,” của nhà văn Nam Mỹ Samuel Puig, nói về hai người đàn ông gặp nhau trong nhà tù, giai đọan cách mạng của Á Căn Đình, đã được Broadway diễn, và Hollywood làm thành phim.
4)Mrs. Bridge của Evan Connell, nói về khủng hoảng tâm lý của giới trung lưu da trắng sống ở ngoại ô, thập niên 1950s, đã được làm thành phim, tài tử Paul Newman và vợ ông ta, JoAnne Woodward, đóng vai chính.
5)Art Lover của Carole Masso, nhà văn cải cách và giáo sư văn chương của đại học Brown và Columbia, nói về nội tâm và đời sống tình dục, tình cảm của một phụ nữ phải đối diện với nguồn gốc lịch sử của bản thân mình.
6)Sau cùng là tiểu thuyết Sula của nữ văn hào Mỹ da đen, Toni Morrison (nhà văn đọat giải Putlizer của Mỹ và Nobel của thế giới về tiểu thuyết). Sula nói về cái chết của người phụ nữ da đen khi đã bỏ đi, rồi chọn quay trở về với nguồn cội của mình.
Tôi chọn 6 tác phẩm vì cảm thấy những mệnh đề của chúng có những điểm tương đồng với mệnh đề liên quan đến người di dân gốc Việt. Các bài phê bình của tôi kể trên đều dẫn chứng thuyết của Roland Barthes mà tôi cũng như một số cây viết VN lớn tuổi hơn tôi, trong và ngoài nước đã nhắc đến: theo Barthes, chu trình phê bình văn chương chính là chu trình sáng tạo của nhà phê bình. Tác giả không cần giải thích, mà nhà phê bình là người mang trách nhiệm giải thích. Trong thuyết của Barthes, nhà phê bình không phải là người đi khen tặng hay mạt sát, mà phải là người đi phân tích và tìm tới thế giới sáng tạo của tiểu thuyết, qua chính khả năng sáng tạo của mình: người đọc thấy gì trong tiểu thuyết qua những biểu tượng và tình tiết?
(co`n tie^'p)