Friday, May 4, 2018

TIÊU CHUẨN PHẨM ĐỊNH TIỂU THUYẾT LỊCH SỬ: MẠN ĐÀM VĂN CHƯƠNG VỚI DNN -- PHẦN HAI

first posted vietthuc.org Thursday, May 30, 2013

MẠN ĐÀM VĂN CHƯƠNG VỚI DƯƠNG NHƯ NGUYỆN


thực hiện bởi QUÊ HƯƠNG VIỆT NAM năm 2011.


Phần Hai cuả cuộc phỏng vấn:  

LỊCH SỬ, SỰ THẬT, VÀ TIỂU THUYẾT

TÓM TẮT PHẦN 1:
Trong Phần 1 của cuộc phỏng vấn thực hiện bởi Quê Hương VN ("QH"), Dương Như Nguyện ("DNN") nói về phân tích văn chương và phân loại tiểu thuyết.

TÓM TẮT PHẦN 2 DƯỚI ĐÂY:
Người đọc tiếng Việt đã xôn xao về một tác phẩm (không phải là tác phẩm văn chương) đã bị từ chối không cho xuất bản ở VN, nhưng lại được tung ra thị trường ở hải ngoại, gây nhiều bàn cãi trong dư luận về giá trị lịch sử: đó là cuốn “Bên Thắng Cuộc” của Huy Đức.  Nhân dịp này, QH tiếp tục đưa ra một đối chiếu khác, qua Phần Hai cuộc mạn đàm văn chương với Giáo Sư Dương Như Nguyện.  Bà nhắc đến cuốn tiểu thuyết "Dị Hương" nói về vua Gia Long và công chúa Ngọc Bình, được giaỉ thưởng văn học cuả VNCHXHCH, do một sĩ quan quân đội nhân dân (kẻ thắng cuộc) viết.
Tuy trọng tâm cuộc mạn đàm là thế giới của văn chương sáng tạo và nghệ thuật tiểu thuyết, DNN đã nhắc đến và nêu kết luận về tiêu chuẩn chung cho tất cả các sách bất kỳ loại nào.  Bà gọi tiêu chuẩn đó là “cái khuôn vuông tròn” để đo lường bất cứ cuốn sách nào “trong công việc đi tìm và phô bày sự thật,” cũng như “trách nhiệm của ngòi bút trước độc giả và lịch sử.”  Tiểu thuyết văn chương, cho dù là sáng tạo hư cấu, theo bà thì cũng nằm trong "cái khuôn vuông tròn" ấy mà thôi.

NÓI VỀ KHẢO CỨU CUẢ GS DNN:
Cuối thập niên 1990s, và đầu thập niên 2000s, Giáo Sư DNN đã nghiên cứu về tiêu chuẩn phân tích phê bình văn chương và nghệ thuật  sáng tạo (thuộc về chương trình “post J.D.” và nghiên cứu Law and Literature của Bà thực hiện tại đại học Harvard).
Năm 1978, khi cộng đồng người Việt ở Mỹ còn rất phôi thai, DNN tốt nghiệp báo chí hạng Tối Ưu từ đại học Nam Illinois, nơi giảng dạy của cố giáo sư ngữ học VN, Tiến Sĩ Nguyễn Đình Hòa, nguyên khoa trưởng đại học Văn Khoa Saigon, VNCH, trước 1975.  DNN phụ giảng cho giáo sư Hòa một niên khoá năm bà chỉ mới 19 tuổi.
Năm 2004, Đại Học Nam California xuất bản bài khảo cứu cuả Bà về việc đối chiếu chu trình sáng tạo giưã Luật Học và văn chương.
Trong Phần Hai của cuộc mạn đàm với Quê Hương, Bà nói về tiêu chuẩn phê bình qua cách phân loại sách, đồng thời đối chiếu văn chương sáng tạo qua dạng tiểu thuyết lịch sử.

***

TRÍCH TỪ PHẦN HAI CUẢ BÀI PHỎNG VẤN:

DNN [nói về dạng tiểu thuyết lịch sử]...Theo tôi, ở xã hội nào đi chăng nữa, tiểu thuyết là một bộ môn quốc tế. Tiểu thuyết phải là một tấm thảm dệt công phu, mà mỗi nhân vật là một nét vẽ cho tấm thảm đó, để độc giả tìm thấy bức tranh toàn bộ của tấm thảm. Tiểu thuyết không thể chỉ là một mặt phẳng hay một caí thùng để tác giả đem đổ vào đó không biết bao nhiêu thứ tạp nhạp, chỉ với mục đích gây ấn tượng cho người đọc.

Điều này không có nghĩa tiểu thuyết phải được giản dị hoá hay đi theo đường thẳng. Một trong những tiểu thuyết với văn phong, cú pháp, và cốt truyện phức tạp nhất, không đi theo đường thẳng, đồng thời gây sôi nổi nhất, là cuốn “Kinh Ác Quỷ” của một văn hào gốc Trung Á, được cho là một tiểu thuyết dã sử dựa trên nhân vật giáo chủ cuả Hồi Giáo.

QH: “Dị Hương” nói về vua Gia Long và công chúa Ngọc Bình. Đó là tiểu thuyết dã sử, cũng như “Con Gái Cuả Sông Hương” của chị viết là tiểu thuyết dã sử. Theo chị, thế nào là một tiểu thuyết lịch sử hay dã sử?

DNN: Theo tôi, có hai dạng tiểu thuyết lịch sử:

1. Dạng thứ nhất: Nhân vật tiểu thuyết là nhân vật lịch sử. Vì thế, việc xây dựng nhân vật phải chính xác theo dữ kiện lịch sử. Tuy nhiên tâm tình và tâm lý nhân vật lịch sử có thể đi theo sáng tạo của tiểu thuyết gia để đem các nhân vật lịch sử đến gần độc giả. Dị Hương là loại thứ nhất.

2. Dạng thứ hai: Các nhân vật đều là giả tưởng, nhưng được dựng lên trong bối cảnh lịch sử có thực. Việc xây dựng bối cảnh phải chính xác theo lịch sử, dù rằng nhân vật là tưởng tượng. Sông Hương của tôi là loại thứ hai.

Vì thế, tiêu chuẩn phẩm định Sông Hương so với Dị Hương khác nhau.

Bất cứ loại nào đi nữa, tôi cho rằng đạo đức của tiểu thuyết gia không cho phép nghệ sĩ sáng tạo bóp méo lịch sử, dù rằng tiểu thuyết gia có thể đặt lại câu hỏi: đâu là sự thật? Tiểu thuyết gia có thể giúp độc giả hình dung ra khung cảnh của lịch sử như một cuộn phim. Đó là nhiệm vụ của tiểu thuyết.
....
[nọ́i về cuốn tiểu thuyết Dị Hương] Là một độc giả, tôi có nhận xét sau đây về Dị Hương: Truyện được được xây dựng trên đời sống tình dục và những ham muốn trần truồng, gần như bệnh hoạn (dịch chữ perversion), từ trong vô thức nào đó của hai nhân vật lịch sử: Gia Long Hoàng đế bên cạnh Ngọc Bình Công chúa. Đọc xong tôi bị rơi vào tình trạng “hụt hẫng.” Tôi không cảm nhận được động lực [dịch chữ motivation] của nhân vật, và vì thế không đi vào thế giới của tiểu thuyết được (tác dụng lớn nhất của tiểu thuyết gia trên độc giả là làm cho độc giả sống vào khung cảnh của tiểu thuyết, như tôi đã giải nghĩa cụm từ “suspended disbelief” trước đây). Tôi cũng chẳng thấy rõ “Hương” trong Dị Hương có là biểu tượng cho tư tưởng gì không.

Nếu độc giả không thể cảm nhận được luận đề của tiểu thuyết, và nếu  truyện ngắn Dị Hương chỉ có mục đích mua vui -- diễn tả lại đời sống chăn gối và thói quen dục vọng gớm ghiếc của vua Gia Long (người thống nhất sơn hà), thì như vậy, Dị Hương có phải là một “tiểu thuyết tình dục” theo nghĩa “literary erotica” như tôi đã diễn giải trước đây? [Xin xem Phần Một của bài phỏng vấn]. Tác phẩm Ḍi Hương đem một Hoàng đế và một Hoàng hậu lịch sử ra làm nhân vật để gây “ấn tượng"?  Vậy cái gì đứng sau ấn tượng này? Đây là những câu hỏi phức tạp phải đặt ra và xem xét bởi người bình giảng.



Sương Nguyệt Minh, Quân Đội Nhân dân, VNCHXHCN, viết Dị Hương
Được Hội Nhà Văn VN trao tặng giải thưởng văn chương toàn quốc VNCHXHCN năm 2010.


Vua Gia Long: Thống nhất sơn hà –
Thế Tổ Cao Hoàng Đế: Quân vương hay ác quỷ của tiểu thuyết Dị Hương ???́́́

***

QH: Chị có thể đối chiếu  thẳng: “Sông Hương” với “Dị Hương,” khi cả hai tác phẩm đều được lồng vào “lịch sử”?

DNN: Tôi xin đối chiếu tính cách “dã sử” của Dị Hương với Sông Hương như sau:

Sông Hương là một tiểu thuyết trường thiên (dịch chữ “epic”), được dựng lên trong bối cảnh lịch sử THẾ KỶ 20). Nhân vật hư cấu, cốt truyện hư cấu, nhưng bối cảnh có thực.

Dị Hương không có tính cách “epic” của một truyện dài  trường thiên.  Dị Hương dựa trên nhân vật có thực được nêu đích danh trong lịch sử, vua Gia Long, công chuá Ngọc Bình, nhưng hành vi của nhân vật thì hư cấu.  Cốt truyện có thể là hư cấu, còn bối cảnh thì pha trộn vừa hư cấu vừa có thực. Nói tóm lại, độc giả lẫn lộn không biết cốt truyện và bối cảnh có thực hay không. Trong khi đó, tác giả Dị Hương lại chỉ tay điểm mặt hai nhân vật lịch sử có tầm tối quan trọng cuả VN: vua Gia Long (kẻ thắng cuộc tiêu diệt Tây Sơn, thống nhất san hà), và người đẹp Ngọc Bình (con gái nhà Lê đã mất ngôi, và là em gái của vợ vua Quang Trung, triều Tây Sơn, k̉ẻ thua cuộc đã bị tiêu diệt).

Trái ngược lại, Sông Hương cuả tôi không chỉ tay điểm mặt bất kỳ một nhân vật lịch sử nảo nhằm biến họ̣ thành nhân vật trong cốt truyện.  Sông Hương kể lại bối cảnh lịch sử cuả cả một thế kỷ đã đưa đến sự có mặt cuả giai cấp người Việt trung lưu tỵ nạn trên đất Mỹ.  

Nói khác đi, đọc Dị Hương, độc giả bắt buộc phải hỏi: vua Gia Long, Công Chúa Ngọc Bình có hành xử như thế hay không? Trần Huy Sán có thực hay không?  Lịch sử và tiểu thuyết có thể bị lẫn lộn. Khi đem nhân vật lịch sử ra hư cấu thêm bớt, bối cảnh thì vừa thực vừa hư, Dị Hương có thể gây hoang mang. Vấn đề gay gắt nhất trong Dị Hương là chủ đích của tác giả khi chọn lựa làm việc này. Dựng tiểu thuyết để viết lại hay thay đổi cái nhìn về lịch sử sẽ gây ra vấn đề đạo đức và trách nhiệm – tác giả nên dừng lại ở đâu để bảo vệ và tôn trọng con đường đi tìm sự thật – sứ mạng chính của nhà văn?

Khác với Dị Hương, tất cả các nhân vật của Sông Hương đều hư cấu. Lịch sử trở thành cái nền, bối cảnh cho các nhân vật giả tưởng cùng sống, cư xử và đối tác với nhau. Trong chính sử của Việt Nam, không có vị vua triều Nguyễn nào tên là Thuận Thành, mà cũng không có vương phi nào gọi là Huyền Phi. Nhân vật lịch sử độc nhất có thật là Đức Thành Thái, nhưng vua Thành Thái không phải là nhân vật Thuận Thành. Khâm Sứ Trung Kỳ thời vua Thành Thái cũng không mang tên Sylvain Foucault. Tác giả đem những nhân vật hư cấu này vào tình huống cá nhân hoàn toàn theo tưởng tượng. Chỉ có bối cảnh lịch sử là có thật để làm tăng tính chất thuần túy và rất đáng tin cho truyện mà thôi (dịch chữ “authenticity” và “credibility”). Độc giả biết như thế. Vì thế, không có việc bóp méo lịch sử.

Trong khi mô tả bối cảnh lịch sử, thì tôi --  tác giả cuả Sông Hương -- có nhắc đến các nhân vật lị́ch sử như Bà Triệu,  Nguyễn Thái Học, Hồ̉̀ Chí Minh, Albert Sarraut, v̀ì các nhân vật này nằm trong bối cảnh lịch sử cuả nước Việt Nam cổ, cận đại, và hiện đại, nhưng họ không phải là nhân vật cuả cốt truyện. Điều phân biệt này làm Sông Hương khác hẳn Dị Hương.

Câu hỏi lớn nhất:  Thế nào là một tiểu thuyết có giá trị, nhất là khi tiểu thuyết có tác dụng bóp méo lịch sử? Tiểu thuyết phải được nhận định trên giá trị văn chương và tư tưởng, nhưng không thể thay thế lịch sử.


Dương Như Nguyện, giải Học sinh Trung học Xuất sắc Toàn Quốc trao bởi Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa Nguyễn Văn Thiệu, trước 1975.

QH: Chị nghĩ sao về lý luận của một số độc giả, cho rằng tác giả tiểu thuyết lịch sử không thể lấy nhân vật có thật đem vào tiểu thuyết, cũng không được tạo nên nhân vật hư cấu, mà phải viết giống hệt như những gì lịch sử đã ghi xuống?

DNN (cười): Nói như vậy thì đem chôn hoặc gạch xóa luôn bộ môn tiểu thuyết cho rồi.  Tiểu thuyết lịch sử có thể biến nhân  vật lị́ch sử thành nhân vật cốt truyện, hoặc xây dựng nhân vật hư cấu giộ́ng như nhân vật lịch sử, trong bối cảnh lịch sử có thật. Nhưng phả̀i có những ranh giới và sự cẩn trọng cuả người cầm bút, cho dù là tiểu thuyết gia chứ không phải là sử gia. Tiêu chuẩn chung vẫn là con đường đi tìm hay cân  nhắc lại sự thật, luôn luôn tiềm tàng trong trách nhiệm cuả người cầm bút.

Tôi xin nêu một vài thí dụ lấy từ văn học Tây Phương.

1) Thí dụ thứ nhất: Một trong những tiểu thuyết hấp dẫn nhất của thế giới là truyện “Ba Chàng Ngự Lâm Pháo Thủ” của văn hào Alexandre Dumas, viết năm 1844. Bối cảnh là nước Pháp năm 1625 và ba chàng ngự lâm – Athos, Porthos và Aramis, theo hầu vua Louis thứ 13. Họ khắc phục được Hồng Y Richelieu và sứ giả của ngài là Bà Quý Phái De Winter trong chiến dịch muốn làm xấu mặt hoàng gia. Độc giả thường thắc mắc xem ba chàng ngự lâm này có thật hay không, vì đức Hồng Y và Vua Louis thứ 13 thì hoàn toàn có thật, và bối cảnh thì y hệt như thật.

Cũng như nhiều tác giả viết tiểu thuyết khác, Alexandre Dumas dùng nhân vật lịch sử có thật để dựng nên tiểu thuyết. Thế nhưng, nhà văn không bóp méo những gì lịch sử đã ghi nhận về đức Hồng Y cũng như nhà vua nước Pháp. Các sử gia đều biết là 3 chàng ngự lâm không có thật, dù rằng bối cảnh lịch sử của tiểu thuyết rất đáng tin. Trong trạng huống của tiểu thuyết, thì hành động của hai nhân vật lịch sử: nhà vua và Đức Hồng Y, dĩ nhiên là sản phẩm tưởng tượng của Dumas, nhưng không trái ngược lại vớ những gì lịch sử đã ghi nhân.  Vì thế, đem nhả̀ vua và Đức Hồng Y vào tiểu thuyết  không làm cho giá trị tác phẩm của Dumas hay vấn đề lương tâm người cầm bút bị vẫn đục đi.

2) Thí dụ thứ hai: Một giáo sư Luật ở đại học Yale, Jed Rubenfeld, viết cuốn tiểu thuyết trinh thám mang tên “Diễn Giải Việc Sát Nhân” (The Interpretation of Murder), xuất bản bởi Nhà Henry Holt ở Nữu Ước.

Truyện này phân tách tâm lý kẻ sát nhân để đi truy tìm thủ phạm đã giết một phụ nữ thượng lưu ở Nữu Ước. Truyện hoàn toàn giả tưởng. Tuy nhiên, tác giả đã đem hai nhân vật có thực vào truyện: bác sĩ Sigmund Freud và đồ đệ của ông ta là lý thuyết gia Carl Jung. Hành động của Freud và Jung trong truyện trùng hợp với những chi tiết có thực ngoài đời, nhưng dĩ nhiên hành vi của hai nhân vật này trong tiểu thuyết hoàn toàn là tưởng tượng. Đây là một điển hình cho việc pha trộn sự thật và tiểu thuyết một cách vô hại, vì chính các sử gia cũng không biết từng đường đi nước bước của hai bác sĩ Freud và Jung – hai vị này đã làm những gì khi họ viếng thăm nước Mỹ ở thời điểm của cốt truyện?

3) Thí dụ thứ ba: Ảnh hưởng của nghệ thuật sáng tạo trên quần chúng, xã hội và chính trị là trường hợp cuốn tiểu thuyết nổi tiếng tôi đã nhặ́c đến: Kinh Ác Quỷ (the Satanic Verses). Nhà văn gốc Ấn Độ Salman Rushdie dựng một nhân vật giả tưởng quá giống giáo chủ Đạo Hồi. Vì thế dân Hồi Giáo đã vô cùng căm phẫn, đòi giết hoặc khủng bố nhà văn và các tiệm sách. Mới gần đây, năm 2012, sau vụ th̉ảm sát người Mỹ 9/11 bởi bàn tay khủng bố ở Nữu  Ước, lại có trường hợp tương tự về một cuốn phim cũng nói về Hồi Giáo.  Cuốn tiểu thuyết Kinh Ác Quỷ có giá trị văn chương rất cao và văn phong vô cùng khó hiểu. Còn cuốn phim gây sóng gió mới gần đây đầu thập niên 2010  có giá trị mỹ thuật và tư tưởng gì không?

Kết luận: Giá trị của tiểu thuyết lịch sử cũng như lương tâm của ngòi bút không thể đặt trên tiêu chuẩn rằng tiểu thuyết phải giống y hệt như lịch sử. Như thế thì đâu còn là nghệ thuật sáng tạo nữa! Tuy nhiên, khi đem nhân vật lịch sử ra dựng thành nhân vật chính cho tiểu thuyết, hoàn toàn giả tưởng, hay dựng một nhân vật giả tưởng mà quá trùng hợp với nhân vật lịch sử, thì người viết sẽ phải đối diện với vấn đề đạo đức của ngòi bút như tôi đã trình bày.

Giá trị văn chương phải tuỳ thuộc vào mục đích, ngụ ý, biểu tượng, chủ trương và chiều sâu tư tưởng của tác giả, cũng như cái đẹp của tác phẩm về phương diện mỹ thuật. Công cuộc phẩm định giá trị ấy là chỗ đứng cao quý, lương tâm, đạo đức và mỹ thuật tính của nhà phê bình. Theo tiêu chuẩn của Roland Barthes, thì nhà phê bình cũng là nhà sáng tạo. Đạo đức của cây viết đặt nặng trên cả hai: nhà văn sáng tạo và nhà phê bình văn chương – hai thế đứng khác nhau, cùng chung một sứ mạng như nhau. Theo tôi, đó là sứ mạng đem cái đẹp và nhân bản tính vào công cuộc đi tìm sự thật của nhân loại: đi tìm lòng cao thượng ở chốn bùn lầy, đi tìm sự hàn gắn cho tất cả mọi đổ vỡ, đi tìm hy vọng cho mọi thảm kịch, rồi gói ghém tất cả vào nghệ thuật cô đọng của ngôn ngữ, diễn tả qua lời kể truyện. Như thế, nhân vật trở thành nhân chứng. Tôi gọi việc gói ghém này là “cái khuôn vuông tròn và tính chất trọn vẹn của một tiểu thuyết văn chương!”

Còn những tác phẩm nghiên cứu hay tường thuật, theo dạng “phi tiểu thuyết” (non-fiction), thì dỉ nhiên độc giả và nhà phê bình không cần đi vào thế giới sáng tạo của văn chương. Tuy thế, tác giả cũng vẫn phải hoàn tất “cái khuôn vuông tròn” ấy, trong việc đi tìm và phô bày sự thật. Đó là trách nhiệm chung của ngòi bút trước độc giả và lịch sử! [đoạn này được in đậm bởi Quê Hương].

QH: Cảm ơn Chị, và xin hẹn độc giả một dịp khác, nói về đề tài văn chương khác.
---





Tiểu Sử Dương Như Nguyện:
• Sản phẩm trung học của VNCH; giải thưởng danh dự văn chương phụ nữ VNCH Lễ Hai Bà Trưng 1975.
• Thành danh ở Mỹ;
• Thập niên 79-80 (lứa tuổi đôi mươi): học báo chí và luật.
• Thập niên 1990s-2000s (lứa tuổi 40-50): Xuất bản Mùi Hương Quế ̣(NXB Văn Nghệ, California); Chín Chuữ Cuả Nàng ̣-- NXB Văn Mới, California; Daughters of the River Huong; Mimi and her Mirror; Postcard from Nam (AmazonEncore/Lake Union): giải thưởng International Book Awards, loại tiểu thuyết đa văn hóa (Los Angeles).

No comments:

Post a Comment