REPRINT--FAIR USE EXCEPTION TO COPYRIGHT
Trong bài này, Phan Nhiên hạo tự định nghĩa mình là một người di dân đến Mỹ lúc đã lớn tuổi, và anh ta định nghĩa tác giả Việt Thanh Nguyễn là người tỵ nạn đến Mỹ lúc tuổi còn rất nhỏ? Tôi, người đọc và post lại bài này, tự định nghĩa mình là một thiếu nữ đến Mỹ lúc tuổi còn thơ ngây, đã được nuôi dạy bởi gia đình nhà giáo văn chương truyền thống Khổng Mạnh, Pháp-Mỹ-Việt, trãi dài từ Bắc-Trung-Nam, nhưng primary và secondary education của tôi nằm trong hệ thống giáo dục công lập của VNCH, rồi tôi...học và xây dựng nghề nghiệp vừa Bắc Mỹ vừa Âu Châu vưà Á Châu, và rồi tôi...già trên "luật học là nghề, văn chương là nghiệp." Chắc tôi ...già hơn Phan Nhiên hạo, và chắc chắn tôi già hơn tác giả Việt Thanh Nguyễn khoảng một thế hệ. Nhưng học trình ở Mỹ về ngôn ngữ văn chương văn hóa học ̣(cultural studies) giữa tôi và hai vị nam nhi này không khác biệt gì mấy, chỉ khác ngành chuyên môn để...đi kiếm ăn.
Tôi chú ý đến những điều Phan Nhiên Hạo nêu lên.
Theo tôi, nhân vật chính trong "Sympathizer" không mang tâm lý hay điển hình cho người tỵ nạn đến Mỹ, đúng như Phan Nhiên Hạo nói. Nhưng nhân vật ấy lại kết hợp và mang tất cả các nét đời sống tiêu biểu cho quá trình người tỵ nạn ở Mỹ (lai Pháp, làm tình báo nhị trùng trong chiến tranh VN, kháng chiến, đóng film... Francis Coppola, chèo thuyền vượt biên, vô tù CS, ôi thôi đủ thứ không thiếu điểm gì thu thập lại trong 40 năm dựa trên kinh nghiệm của người tỵ nạn). Kết luận của Phan Nhiên Hạo cho rằng cuốn sách này rất xuất sắc của một tác giả rất am hiểu văn hóa Mỹ, Việt và chiến tranh VN, nhưng kết luận này không chính xác dựa trên những gì Hạo phê bình hai cuốn sách. Quý vị đọc kỹ thì thấy. Kết luận trái ngược hẳn lại những phê bình được dẫn chứng qua mắt nhìn của một người tỵ nạn gốc Việt là Phan Nhiên Hạo.
Đọc Không Có Gì Từng Chết và Cảm Tình Viên của Việt Thanh Nguyễn
Nhận định về văn chương thiểu số ở Hoa Kỳ, Việt Thanh Nguyễn viết, “căn cước của tác giả là điều có ý nghĩa bởi vì nghệ thuật tồn tại trong tương quan xã hội nơi tác giả và người đọc mang định kiến của họ vào việc đọc (Không Có Gì Từng Chết, 211). Đây chắn chắn là trường hợp của tôi khi đọc hai cuốn sách của Việt Thanh Nguyễn, Không Có Gì Từng Chết và Cảm Tình Viên. Tôi tiếp cận hai cuốn sách từ góc độ một ngươi Việt tị nạn tại Hoa Kỳ. Và ai cũng biết hơn bốn mươi năm sau cuộc chiến, người Việt hãy còn chia rẽ sâu sắc. Ở đây tôi muốn đề cập đến vài khía cạnh trong hai cuốn sách của Việt Thanh Nguyễn mà tôi đặc biệt quan tâm từ góc độ một người tị nạn.
Việt Thanh Nguyễn đến Mỹ lúc nhỏ
trong khi tôi đến Mỹ vào tuổi trưởng thành. Như hàng triệu người Việt sống ở miền
Nam, gia đình tôi thuộc phía bại trận trong cuộc chiến, và sau 1975 chúng tôi
đã bị trừng phạt nặng nề bởi những người cộng sản chiến thắng. Ngươi Việt miền
Nam như chúng tôi không coi cộng sản là những kẻ giải phóng. Và chúng tôi hãy
còn thù nghịch với họ không phải chỉ vì những kinh nghiệm cay đắng trong quá khứ
mà còn vì chúng tôi nhìn họ như nguyên nhân chính của tình trạng tuyệt vọng cho
người Việt hôm nay. Cần thấy rằng cái gọi là chủ nghĩa chống cộng của người Việt
lưu vong là phản ứng chính trị đối với một chính phủ độc tài cụ thể chứ không
phải chỉ là sự từ khước một lý thuyết trừu tượng. Không nhìn nhận điều này, sẽ
dễ dàng cho rằng chính trị của người Việt hải ngoại là sự phục thù.
Từ góc độ của một người tỵ nạn, thật
khích lệ khi thấy miền Nam được đề cập tới trong hai tác phẩm của Việt Thanh
Nguyễn. Phần lớn các tác giả Mỹ viết về chiến tranh Việt Nam hôm nay chỉ quan
tâm đối thoại với các cựu thù của họ, những Việt Cộng, và dễ dàng bỏ qua những
người Việt đã chiến đấu bên cạnh người Mỹ trong cuộc chiến. Việt Thanh Nguyễn
chỉ ra sự bất công đối với miền Nam trong những câu chuyện về chiến tranh kể bởi
người Mỹ và truyền thông nhà nước Việt Nam. Miền Nam vắng mặt trong ký ức chiến
tranh của người Mỹ vì người Mỹ không muốn dính dáng đến “kẻ yếu và kẻ bại trận”
(Không Có Gì Từng Chết, 44). Ở Việt
Nam, lâu nay nhà nước cộng sản vẫn nỗ lực nhằm xóa bỏ Nam Việt ra khỏi ký ức
chiến tranh quốc gia. Chẳng hạn, họ gây khó dễ việc viếng thăm nghĩa trang quân
đội Việt Nam Cộng Hòa, nằm bên ngoài thành phố, thậm chí phá hoại một số bia mộ
(Không Có Gì Từng Chết, 37). Bị từ khước bởi người Mỹ và hạ nhục bởi
người cộng sản, những người ra đi từ miền Nam, mà nhiều người hiện đang sống tại
Mỹ, kiên quyết giữ ký ức chiến tranh cho chính họ. Việt Thanh Nguyễn nhìn điều
này như “đạo đức của việc tự bảo lưu ký ức thực hành bởi những người yếu thế” (Không Có Gì Từng Chết, 43).
Miền Nam, tuy vậy, chỉ xuất hiện
ngắn ngủi trong Không Có Gì Từng Chết. Phần
lớn cuốn sách tập trung vào sự “mất cân đối” của ký ức chiến tranh giữa Mỹ với
Việt Nam, và trong một chừng mực nhất định, với Cambodia và Lào. Được vận hành
bởi một kỹ nghệ ký ức hùng mạnh, ký ức chiến tranh Mỹ luôn phủ bóng lên ký ức
chiến tranh của những “quyền lực yếu hơn.” Việt Thanh Nguyễn cho rằng tình trạng
mất cân đối này đem đến những hiểu biết giới hạn về cuộc chiến. Tuy điều này chính
xác, tác giả cũng nên chỉ ra rằng ký ức chiến tranh ở Việt Nam thật ra không hề
yếu. Nó đã và đang tiếp tục được xử dụng không chỉ để biện hộ cho sự thống trị
tuyệt đối của đảng cộng sản mà còn để trừng phạt những ai dám thách thức nền sử
học chính thống. Mặc dù đúng là cả hai phía cộng sản và hải ngoại đều chỉ muốn
nhớ đến phần “nhân văn” của mình và vạch ra sự “vô nhân” của đối phương, hai
bên vận hành trong hai hệ thống chính trị hoàn toàn khác nhau. Chính phủ Việt
Nam có thể khóa miệng, thậm chí bỏ tù những người không đồng ý với họ. Người Việt
hải ngoại không có thứ quyền lực đó, và họ sống ở Hoa Kỳ, nơi tự do ngôn luận
được bảo vệ. Sẽ là thấu đáo hơn nếu tác giả chỉ ra sự mất cân đối này. Việt Cộng
và Việt Kiều không phải là hai nạn nhân bình đẳng của kỹ nghệ ký ức Mỹ.
Trong Không Có Gì Từng Chết, Việt Thanh Nguyễn lên tiếng cho một “ký ức
công bằng” của người Việt bằng cách chỉ ra vị thế thiệt thòi của những người viết
về đề tài chiến tranh sống ở trong nước so với nền công nghiệp ký ức hùng mạnh
của Mỹ. Những tác giả người Việt được trích dẫn bởi Việt Thanh Nguyễn, tuy vậy,
ít nhiều đều là những người trong hệ thống nhà nước Việt Nam. Tác phẩm của họ
chẳng có gì liên quan đến kinh nghiệm sống của người ra đi từ miền Nam. Việt
Thanh Nguyễn có vẻ không biết đến nền văn chương phong phú và xuất sắc của miền
Nam, văn chương hải ngoại sau 1975, và văn chương ngoài lề sinh động trong nước
hiện nay. Những dòng văn chương này bao gồm nhiều tác phẩm sâu sắc, một số được
viết bởi những tác giả quan trọng nhất của văn chương đương đại Việt Nam, về
nhiều chủ đề liên quan đến chiến tranh Việt Nam. Không được xuất bản ở Việt
Nam, những tác phẩm này cũng hiếm khi được dịch ra tiếng Anh để đến với người đọc
Mỹ.
Mặc dù Không Có Gì Từng Chết được viết chủ yếu cho đọc giả Mỹ, cuốn sách
nên được đọc rộng rãi ở Việt Nam, đặc biệt bởi những người cầm quyền, vì nếu họ
đồng ý với tác giả về một “ký ức công bằng” và “tha thứ không điều kiện,” đất
nước có thể bắt đầu quá trình chữa lành những vết thương. Không may, có nhiều khả
năng là nhà cầm quyền Việt Nam sẽ tảng lờ những kêu gọi của Việt Thanh Nguyễn.
Tác giả trích dẫn Thích Nhất Hạnh, nhưng ngay cả Thích Nhất Hạnh cũng thất bại
trong việc khuyến khích nhà cầm quyền tiến đến một hòa giải thật sự. Trong chuyến
trở về Việt Nam năm 2007, Thích Nhất Hạnh tổ chức lễ cầu nguyện cho nạn nhân
chiến tranh người Việt từ cả hai phía. Sau những thương lượng dài dòng, nhà cầm
quyền cho phép lễ cầu siêu diễn ra ở ba thành phố, nhưng với điều kiện không nhắc
tới những tử sĩ Việt Nam Cộng Hòa. Sau khi Thích Nhất Hạnh rời Việt Nam, các
môn đệ của ông bị quấy nhiễu và cuối cùng bị trục xuất ra khỏi thiền viện của họ
ở Bảo Lộc. Người cộng sản chỉ chấp nhận duy nhất những ký ức chiến tranh đem lại
cho họ lợi ích chính trị và kinh tế, như loại ký ức được trưng bày tại Bảo Tàng
Chứng Tích Chiến Tranh ở Sài Gòn. Bị vặn vẹo và thiên lệch, bảo tàng này thu
hút nhiều du khách Mỹ mỗi ngày.
Nếu như Nam Việt Nam, và trong một
chừng mực ít hơn, người Việt hải ngoại, chỉ chiếm một phần nhỏ trong Không Có Gì Từng Chết, hai chủ đề này là
trọng tâm trong Cảm Tình Viên. Về cơ
bản, cuốn tiểu thuyết là một mô tả chính xác về cộng đồng người Việt ở Mỹ cuối
thập niên bảy mươi. Đây là cộng đồng của những người đã trải qua một cuộc chiến
đẫm máu, mất mát tất cả, và giờ đây đang cố gắng sống còn trên một đất nước mới.
Tôi không cảm thấy bị động chạm vì sự châm biếm của Việt Thanh Nguyễn đối với cộng
đồng người Việt hải ngoại, vì họ đúng là họ, và hài hước là khía cạnh hấp dẫn của
Cảm Tình Viên. Tuy vậy, tôi thấy một
vài chi tiết trong cuốn sách không thuyết phục.
Nhân vật chính trong Cảm Tình Viên có vẻ quá Mỹ trong vai một
người Việt tị nạn đến Mỹ ở tuổi trưởng thành, và chỉ mới sống ở Mỹ một thời
gian ngắn. Mặc dù tác giả cung cấp những lý do cho khả năng phát âm tiếng Anh
hoàn hảo của nhân vật chính, bao gồm lý do là nhân vật này được dạy chút tiếng
Anh vào lúc nhỏ ở Việt Nam bởi một nhà truyền đạo, những giải thích này có vẻ yếu
ớt. Nhân vật chính cũng hành xử tự tin kiểu một người rất thoải mái với lối sống
Mỹ, là điều mà theo kinh nghiệm cá nhân và quan sát của tôi về người Việt hải
ngoại, là chuyện hiếm có đối với người mới nhập cư. Mặc dù nhân vật chính du học
một vài năm ở Mỹ trước 1975, trong thực tế, vẫn là chuyện không tưởng để anh ta
có một kiến thức bao quát về văn hóa Mỹ như vậy. Thật ra, nhân vật này xuất hiện
như một học giả người Mỹ gốc Á phê phán văn hóa Mỹ hơn là một người tị nạn nỗ lực
sống còn trên đất nước mới. Thêm nữa, có vẻ như nhân vật chính mô tả những người
đồng hương Việt qua cái nhìn của một người Việt đến Mỹ lúc nhỏ hơn là một người
đến Mỹ vào tuổi trưởng thành. Những chi tiết này, có thể không quan trọng đối với
độc giả Mỹ, nhưng đối với tôi, chúng cho thấy Cảm Tình Viên là câu chuyện được kể từ góc độ một học giả Mỹ gốc Á
hơn là một người Việt tị nạn.
Tôi cũng thấy chi tiết ba cảnh
sát miền Nam hãm hiếp một nữ tù cộng sản trong tác phẩm có vẻ khó hiểu. Trong bối
cảnh tàn bạo của chiến tranh Việt Nam, câu hỏi quan trọng là loại tội ác này có
xảy ra thường xuyên hay không và liệu chúng là những câu chuyện cá biệt hay là sự
thực hành có hệ thống ở mỗi phe. Không may, câu hỏi này có thể không bao giờ được
trả lời, vì như Việt Thanh Nguyễn đã chỉ ra: “hãm hiếp là một trong những hậu
quả kín tiếng nhất của chiến tranh” (Không
Có Gì Từng Chết, 228). Có thống kê về chết chóc, nhưng không có thống kê về
hãm hiếp. Tôi không muốn đi vào cuộc tranh luận về mức độ chân thực lịch sử của
vụ hãm hiếp được mô tả trong tác phẩm. Lý do phân cảnh này khiến tôi cảm thấy
kinh tởm, tuy vậy, nằm ở các chi tiết. Chúng không chỉ tô đậm một tội ác mà còn
cho thấy những thành kiến cay nghiệt về miền Nam. Dưới sự quan sát của một cố vấn
Mỹ và hai sĩ quan chỉ huy người Việt, ba viên cảnh sát Việt Nam Cộng Hòa sát hiếp
dâm một nữ tù Việt Cộng, dùng bạo lực tình dục như phương pháp thẩm vấn được dạy
bởi cố vấn Mỹ. Ba viên cảnh sát gấu ó nhau về chuyện ai được hiếp trước, vì như
những người Việt tiêu biểu, họ không quen với “khái niệm xếp hàng.” Họ than phiền
về đống lầy nhầy để lại bởi kẻ hiếp dâm trước, nhưng rồi từng người, “không
chùn bước bởi đống lầy nhầy, lập lại những động tác của kẻ trước…để chỉ trong
vòng vài phút, đạt đến cùng một kết thúc tục tĩu.” Sau cùng, họ nhét một chai
Coca vào cửa mình tù nhân và đùa giỡn. Không chỉ bịnh hoạn, những viên cảnh sát
này được mô tả như những tên đàn ông èo uột, hành xử trẻ con. Trong ngôn ngữ của
tác giả, những viên cảnh sát này không phải đàn ông; họ là, “thật ra, những con
chuột” (Cảm Tình Viên, 351).
Không nghi ngờ gì đây là một phân
cảnh quan trọng và có tính biểu tượng cao trong tác phẩm. Nó ngụ ý rằng chiến tranh
Việt Nam, sau cùng, là trận chiến tàn bạo giữa những người Việt. Cái cách mà
tác giả mô tả vụ hãm hiếp, tuy vậy, dường như chỉ lập lại những thành kiến dễ
dãi: rằng Mỹ là kẻ giật dây và Nam Việt là con rối, rằng quân đội miền Nam là mục
nát và bất lực, rằng lính miền Nam hoặc là những tên hiếp dâm hoặc là ma cô, trong
số nhiều nhãn hiệu nhục mạ khác. Thật mỉa mai, tôi thấy cảnh hãm hiếp này cũng
cường điệu như cảnh hãm hiếp trong bộ phim Hollywood mà nhân vật chính trong tiểu
thuyết đã chế giễu. Trong tiểu thuyết, nếu đạo diễn Auteur chọn những người đàn
ông Việt với “nhân dạng đặc thù,” những người “với màu da nâu vàng của chuối thối
và mắt lươn ti hí” để đóng vai Việt Cộng và yêu cầu họ “cứ thoải mái, là chính
mình” (Cảm Tình Viên, 164). Việt Thanh Nguyễn cũng mô tả các
nhân viên cảnh sát như những người đàn ông nhân dạng xấu xí, với bộ phận sinh dục
nhìn buồn cười: “cái chỉa lên, cái chỉa xuống, cái thứ ba ngoẹo về một bên” (Cảm Tình Viên, 350). Tương tự như những diễn viên đóng vai Việt Cộng trong bộ phim
của Hollywood, ba viên cảnh sát cũng cười đùa trong khi hãm hiếp nữ tù cộng sản.
Trong khi chế giễu nhân vật đạo diễn Hollywood về cảnh hãm hiếp trong phim của
ông ta, coi đó như một thủ thuật điện ảnh rẻ tiền, điều thú vị là chính Việt
Thanh Nguyễn lại đưa vào tác phẩm của mình một cảnh tương tự. Trong tiểu thuyết,
khi bị nhân vật chính chỉ trích vì cảnh hiếp dâm dễ dãi, đạo diễn Hollywood trả
lời: “Mình phải làm cho khán giả sốc một chút… Thỉnh thoảng họ cần được đá đít
để tỉnh ra sau khi ngồi quá lâu… Đây là chiến tranh, và hiếp dâm là chuyện xảy
ra. Tôi có bổn phận phải mô tả” (Cảm Tình
Viên, 163). Tôi tự hỏi phải chăng
Việt Thanh Nguyễn sẽ dùng lý lẽ tương tự để biện hộ cho những mô tả của chính
tác giả về cảnh hãm hiếp trong tiểu thuyết. Phân cảnh này, nói như lời nhân vật
chính, “thật sự là không cần thiết” (Cảm
Tình Viên, 163).
Không Có Gì Từng Chết và Cảm
Tình Viên là hai tác phẩm xuất sắc viết bởi một tác giả thông hiểu cả hai
văn hóa Việt, Mỹ, và về chiến tranh Việt Nam. Điều này cho phép tác giả nói về
cuộc chiến với cả người Mỹ lẫn người Việt. Người Mỹ tuy vậy sẽ rất dè dặt khi
phê bình một tác giả thiểu số viết về cộng đồng của anh ta, trong khi người Việt
sẽ luôn đòi hỏi nhiều hơn từ một tác giả mà họ coi là người của họ. Vấn đề trở
nên phức tạp hơn vì người Việt hãy còn chia rẻ sâu sắc về chiến tranh Việt Nam.
Đến thời điểm này vẫn chưa có nhiều tranh cãi về Cảm Tình Viên giữa những người Việt. Có lẽ vì vẫn chưa có nhiều người
Việt đọc trọn cuốn sách viết bằng tiếng Anh này. Một nhà xuất bản ở Việt Nam
đang cố cho ra mắt một bản dịch không bị cắt xén. Tôi hy vọng trong tương lai gần,
sẽ có nhiều người Việt trong nước lẫn hải ngoại được tiếp cận với một bản dịch
trung thành.
Phan Nhiên Hạo
No comments:
Post a Comment